Điều chỉnh luật để cấp sổ hồng cho 82.900 condotel trên cả nước
Chia sẻ
> Bất động sản condotel bị đề nghị dừng cấp phép
Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) vừa có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ và các bộ liên quan đề xuất các giải pháp nhằm hợp thức quyền sở hữu cho loại hình căn hộ du lịch (condotel).
Luật cho phép condotel có sổ hồng nhưng thiếu quy định điều chỉnh
Căn cứ các quy định theo Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai, Nghị định 43/2014/NĐ-CP, Nghị định 01/2017/NĐ-CP, HoREA cho rằng, chủ sở hữu công trình xây dựng trong dự án kinh doanh bất động sản không phải là dự án nhà ở, trong đó có condotel, có quyền yêu cầu được cấp giấy chứng nhận đối với tài sản gắn liền với đất (sổ hồng) có thời hạn, theo thời hạn của dự án.
Bên cạnh condotel, các loại hình khác cũng có quyền được cấp sổ hồng, gồm: biệt thự du lịch, nhà phố du lịch (shophouse du lịch) thuộc dự án khu du lịch nghỉ dưỡng, văn phòng lưu trú (officetel), căn hộ dịch vụ (serviced apartment), căn hộ thương mại (shophouse).
HoREA nêu quan điểm: “Do chưa có các quy định pháp luật đồng bộ, cho đến nay các chủ sở hữu công trình xây dựng trong dự án kinh doanh bất động sản không phải là dự án nhà ở, trong đó có condotel vẫn chưa được cấp sổ hồng nên rất cần được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết yêu cầu chính đáng này”.
Condotel hầu hết nằm trong nhà cao tầng, nên được cho là có nhiều điểm tương đồng với căn hộ chung cư. Tuy nhiên, hiện chỉ có nhà chung cư mới có căn cứ pháp luật điều chỉnh tương đối đầy đủ và khá chặt chẽ, thông qua các quy định của Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản.
Không như căn hộ chung cư, loại hình condotel thiếu nhiều quy định pháp luật điều chỉnh. Hiện chưa có căn cứ pháp luật để xác định phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung, quyền sử dụng đất chung, để cấp sổ hồng cho chủ sở hữu condotel.
Loại hình này cũng chưa có căn cứ pháp luật để xác định trách nhiệm bảo trì, kinh phí bảo trì, quản lý sử dụng kinh phí bảo trì phần sở hữu chung của chủ sở hữu; chưa có quy định về cơ chế quản lý vận hành tòa nhà khi đưa dự án condotel vào khai thác kinh doanh.
Quy định phần sở hữu riêng, quyền sử dụng đất để không sai luật
HoREA đề nghị sử dụng thống nhất khái niệm condotel là dạng cơ sở lưu trú du lịch theo quy định tại khoản 3 điều 48 Luật Du lịch. Theo đó, căn hộ du lịch có thể nằm trong nhà chung cư hỗn hợp, hoặc nằm trong tòa nhà cao tầng độc lập, hoặc tòa nhà hỗn hợp của khu du lịch, hoặc tòa nhà ngoài khu du lịch.
Trong khi chờ ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh (mới), tổ chức này đề nghị Bộ Xây dựng trình Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét quy định phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung, quyền sử dụng đất chung của chủ sở hữu condotel, để Bộ Tài nguyên & Môi trường có căn cứ hướng dẫn các địa phương ghi diện tích phần sở hữu riêng, quyền sử dụng đất của chủ sở hữu condotel vào giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình không phải là nhà ở của chủ sở hữu condotel.
Đồng thời đề nghị quy định trách nhiệm bảo trì, kinh phí bảo trì, quản lý sử dụng kinh phí bảo trì phần sở hữu chung và cơ chế quản lý vận hành đối với tòa nhà condotel.
Theo đó, phần sở hữu riêng của chủ sở hữu condotel chỉ bao gồm phần diện tích căn hộ condotel được xác lập trong hợp đồng mua bán căn hộ và cách tính diện tích căn hộ condotel áp dụng tương tự và thống nhất với cách tính diện tích căn hộ nhà chung cư (theo diện tích thông thủy).
Ngoài phần sở hữu riêng, phần diện tích xây dựng còn lại thuộc phần sở hữu chung của chủ sở hữu căn hộ condotel, áp dụng tương tự như cách tính phần sở hữu chung của chủ sở hữu nhà chung cư theo quy định của Luật Nhà ở.
Thực tế, đã có một số tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở không hình thành đơn vị ở (ổn định lâu dài) cho condotel. Tuy nhiên mới đây, cơ quan có thẩm quyền của Trung ương kết luận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở không hình thành đơn vị ở là trái với quy định của Luật Đất đai.
Hiện cả nước có khoảng 82.900 căn condotel, phần lớn nằm trong tòa nhà cao tầng thuộc các khu du lịch nghỉ dưỡng, sử dụng quỹ đất là đất thương mại, dịch vụ, theo quy định của Luật Đất đai, có thời hạn sử dụng đất tối đa 50 năm, trường hợp đặc biệt tối đa không quá 70 năm.